Close

Phù bạch mạch xảy ra khi nào? Cách tự kiểm tra phù bạch mạch?

Một bác sĩ có kiến thức chuyên môn về bệnh phù bạch mạch có thể dễ dàng chẩn đoán bệnh phù bạch mạch bằng cách xem xét tiền sử bệnh của bệnh nhân và khám sức khỏe. Điều này bao gồm đo chu vi của cánh tay hoặc chân bị ảnh hưởng để xác định mức độ nghiêm trọng của việc tích tụ chất lỏng ở các chi bị ảnh hưởng.

Bác sĩ xác định xem liệu các triệu chứng, chẳng hạn như sưng ở tay hoặc chân, có thể do các tình trạng khác, bao gồm cục máu đông hoặc suy tim gây ra, được điều trị theo cách khác.

Để xác định thêm chẩn đoán, một số xét nghiệm hình ảnh có thể được thực hiện để kết luận nguyên nhân chính xác của sự tích tụ chất lỏng trong các mô.

Các thủ tục này có thể bao gồm:

  • Chụp ảnh bạch huyết (được thực hiện phổ biến nhất và được coi là tiêu chuẩn vàng)
  • Quang phổ cản sinh học (BIS)
  • ICG Lymphography (Indocyanine Green), đôi khi được gọi là Nội soi huỳnh quang
  • MRI
  • CT
  • Lymphography gián tiếp
  • Và những cách khác

Bạn cũng có thể tự kiểm tra Phù bạch mạch trước khi hẹn gặp bác sĩ – hãy tự đánh giá bằng cách trả lời các câu hỏi sau:

  • Sưng có giới hạn ở một cánh tay hoặc chân không?
  • Bạn đã phẫu thuật hoặc xạ trị trước khi bắt đầu sưng?
  • Bạn có bị thương ở phần cơ thể bị ảnh hưởng của mình không?
  • Mu bàn tay / bàn chân có bị sưng tấy không?
  • Các nếp gấp da tự nhiên (khuỷu tay / đầu gối, mắt cá chân / cổ tay) ở phần đầu của bạn có bị hằn sâu hơn không?

Nếu câu trả lời cho một số hoặc tất cả các câu hỏi trên là “có”, thì bệnh phù bạch mạch có thể xuất hiện.

Bạn cũng có thể thực hiện Kiểm tra “Stemmer” bằng cách cố gắng nâng một nếp gấp da ở mặt sau của ngón chân thứ hai hoặc ngón giữa.

Nếu bạn có thể véo nhẹ và nâng nếp da, thì dấu hiệu Stemmer là âm tính. Nếu không thể nhẹ nhàng véo và nâng nếp gấp, đây có thể là dấu hiệu của sự tích tụ mô do tích tụ protein trong các mô này. Trong trường hợp này, dấu hiệu Stemmer dương tính và là dấu hiệu cho thấy có thể xuất hiện phù bạch mạch.

(Bạn có thể xem và tìm hiểu về phương pháp điều trị phù bạch mạch trên cùng trang)

Câu hỏi đặt ra là – khi nào một vết sưng được coi là phù, và khi nào thì phù bạch mạch?

Để hiểu được sự khác biệt, điều quan trọng là phải xem xét rằng một phần lớn cơ thể con người bao gồm nước. Theo sách “Guyton’s Textbook of Medical Physiology”, hàm lượng nước ở nam giới có trọng lượng trung bình là khoảng 60%, ở nữ giới là khoảng 55%. Khoảng 2/3 lượng nước nằm bên trong các tế bào của cơ thể trong ngăn chứa dịch nội bào, 1/3 nằm bên ngoài các tế bào trong ngăn ngoại bào.

Trong số chất lỏng cư trú bên ngoài tế bào, 1/5 nằm bên trong mạch máu dưới dạng chất lỏng nội mạch. Chất lỏng còn lại (khoảng 10,5 lít) được phân phối trong mô kẽ giữa các tế bào (dịch kẽ).

Chất lỏng, khí (oxy và carbon dioxide), chất dinh dưỡng và chất thải được trao đổi liên tục giữa máu và mô kẽ. Các vị trí chính của sự trao đổi này là các mao mạch máu, là những mạch máu nhỏ nhất và là một phần của vi tuần hoàn của cơ thể. Mao mạch máu có thành rất mỏng, chỉ gồm một lớp tế bào. Khoảng cách giữa các tế bào này cho phép trao đổi các chất này từ các mao mạch máu vào các mô và trở lại. Nước nằm trong các khoảng mô kẽ là chất lỏng đã rò rỉ ra khỏi các mao mạch máu.

Và phù nề xảy ra khi lượng dịch kẽ tích tụ quá mức, tức là có quá nhiều nước rời khỏi các mao mạch máu hoặc nước nằm trong các mô không được tái hấp thu đủ hiệu quả trở lại các mao mạch máu. Phù có thể ảnh hưởng đến toàn bộ cơ thể (phù nề, hoặc phù toàn thân), hoặc chỉ một số bộ phận của cơ thể (phù cục bộ).

Để hiểu được bất kỳ sự sưng tấy nào, cần phải xem xét các yếu tố và thành phần khác nhau liên quan đến việc di chuyển chất lỏng khắp cơ thể, vào và ra khỏi mạch máu. Các thành phần chính tham gia vào quá trình này là hệ thống tim mạch (tim và mạch máu) và hệ thống bạch huyết.

Hệ thống tim mạch bao gồm một mạng lưới phức tạp được thiết kế để cung cấp oxy và chất dinh dưỡng đến các cơ quan trong cơ thể và loại bỏ các chất thải của quá trình trao đổi chất khỏi các mô. Máu đã được cung cấp oxy trong phổi sẽ được bơm ra khỏi tim qua động mạch chủ, động mạch lớn nhất trong cơ thể. Cung động mạch chủ đi lên từ tâm thất trái của tim đến ngực trên, và sau đó đi xuống bụng tạo thành thân chính của tuần hoàn động mạch. Sau đó, động mạch chủ phân nhánh thành nhiều động mạch nhỏ hơn, cung cấp máu giàu oxy đến các hệ thống cơ thể khác nhau. Các động mạch này tiếp tục chia nhỏ thành các mạch nhỏ hơn, và cuối cùng thành các mao mạch máu, bao gồm một động mạch và một vòng tĩnh mạch. Sự trao đổi chất lỏng, khí, chất dinh dưỡng và các chất thải giữa máu và mô xảy ra qua các bức tường của chúng.

Trên đường trở về tim, máu tĩnh mạch đi qua các tĩnh mạch lớn dần và cuối cùng kết nối với tim. Một phần lớn các chất thải được chiết xuất từ ​​máu khi nó chảy qua thận.

Hệ thống bạch huyết bao gồm các hạch bạch huyết và một mạng lưới các kênh trong cơ thể mang chất lỏng bạch huyết, là một chất lỏng không màu chứa chủ yếu là nước, protein và các tế bào máu trắng. Thành phần nước trong chất lỏng bạch huyết bao gồm một phần chất lỏng, chất lỏng này rời khỏi các mao mạch máu, nhưng không được tái hấp thu trở lại các mao mạch máu.

Hệ thống bạch huyết chạy song song với hệ thống tuần hoàn máu và đại diện cho một tuyến đường phụ để chất lỏng chảy từ các mô trở lại dòng máu. Chất lỏng bạch huyết được quay trở lại tuần hoàn máu thông qua các mạch bạch huyết lớn hơn (các thân bạch huyết), và lượng khoảng 2-3 lít mỗi ngày. Không giống như hệ thống tuần hoàn, trong đó tim hoạt động như một máy bơm để lưu thông máu, hệ thống bạch huyết không có máy bơm để lưu thông chất lỏng bạch huyết. Thay vào đó, các mạch bạch huyết lớn hơn chứa các cơ nhỏ (mạch bạch huyết) bên trong thành của chúng, chúng co các phần liên tiếp của mạch bạch huyết để tạo điều kiện thuận lợi cho sự di chuyển của bạch huyết qua các mạch của nó thông qua hiệu ứng nhu động.

Trong điều kiện bình thường, cơ thể phát triển mạnh để duy trì sự cân bằng của chất lỏng trong các mô bằng cách đảm bảo rằng cùng một lượng nước đi vào cơ thể cũng sẽ rời khỏi cơ thể. Tuy nhiên, một số yếu tố có thể làm đảo lộn sự cân bằng chất lỏng trong cơ thể, điều này có thể gây ra chứng phù nề hoặc phù bạch huyết.

Phù nề

Phù nề là một triệu chứng có thể do một số tình trạng gây ra, bao gồm:

  • Suy tim sung huyết (CHF),
  • Suy tĩnh mạch mãn tính (CVI),
  • Bất động (đứng hoặc ngồi lâu, tê liệt)
  • Mang thai, hoặc áp lực từ đồ trang sức chật, băng quấn chặt hoặc quần áo nén

Trong tất cả những trường hợp này, sự tích tụ chất lỏng trong các mô kẽ là do lượng máu tĩnh mạch trở về không đủ, hoặc tĩnh mạch tích tụ lại. Khối lượng máu cao và do đó là sự gia tăng áp suất thủy tĩnh bên trong các tĩnh mạch và mao mạch máu khiến chất lỏng khó di chuyển từ các mô trở lại mạch. Trong khi hệ thống bạch huyết cố gắng điều chỉnh sự mất cân bằng này bằng cách làm việc chăm chỉ hơn, thì mức độ tăng cao của chất lỏng mô lại quá cao để các mạch bạch huyết có thể bù đắp được.

Phù cũng có thể do thay đổi nồng độ protein huyết thanh (giảm protein huyết). Protein trong máu có khả năng giữ lại một số nước và muối trong máu, và mức độ protein thấp hơn có thể ảnh hưởng đến sự di chuyển của chất lỏng vào và ra khỏi các mao mạch máu khiến lượng nước dư thừa tích tụ trong các mô. Mất protein huyết thanh có thể do bệnh thận, gan hoặc tuyến giáp, suy dinh dưỡng, chảy máu nhiều, vết thương chảy dịch mãn tính và bỏng quá nhiều.

Phản ứng viêm do chấn thương và viêm khớp cũng là nguyên nhân phổ biến dẫn đến sự khởi phát của chứng phù nề.

Phù nề là sự tích tụ có thể nhìn thấy và sờ thấy của lượng chất lỏng dư thừa trong các mô. Dùng ngón tay cái ấn nhẹ và đều đặn lên các mô phù nề sẽ tạo ra vết lõm tạm thời (phù rỗ). Phù có thể là một triệu chứng tạm thời hoặc vĩnh viễn và việc điều trị của nó tập trung vào việc điều chỉnh tình trạng cơ bản; nếu tình trạng này có thể được giải quyết, phù nề sẽ biến mất. Nếu không thể khắc phục được nguyên nhân cơ bản, thì chứng phù nề có thể được điều trị bằng cách nâng cao phần cơ thể bị ảnh hưởng, mặc quần áo ép, sử dụng thuốc lợi tiểu hoặc thay đổi chế độ ăn uống tập trung vào lượng muối thấp.

Nguồn:

When is it Lymphedema? Self-Check for Lymphedema

Liên hệ với chúng tôi để được tư vấn trực tiếp nếu bạn còn băn khoăn hoặc muốn biết thêm chi tiết:

Tiến sĩ – Bác sĩ Nguyễn Văn Phùng
724 Sư Vạn Hạnh, Phường 12, Quận 10, Tp Hồ Chí Minh
Điện thoại: 090.27.27.138